Gần đây tại vùng hạ lưu cửa sông Thu Bồn ngày càng xuất hiện nhiều hộ đánh bắt hải sản nước ngọt, nước lợ bằng lưới lồng. Loại lưới này có kích thước nhỏ, tận diệt, gây nguy cơ cạn kiệt hải sản, ảnh hưởng để hệ sinh thái biển của Khu Dự trữ sinh quyển.
Thả lưới lồng trên sông Thu Bồn- Ảnh: Công Sanh
Như đã biết, vành đai Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An bao gồm các hệ sinh thái vùng cửa sông Thu Bồn và vùng biển Cù Lao Chàm. Ngoài vùng rừng dừa ngập mặn Cẩm Thanh, các thảm cỏ biển, thảm rong biển và các cồn bãi tự nhiên được tạo bởi nhiều nhánh sông bao bọc, còn có các vùng bãi giống, bãi đẻ, bãi ương nuôi ấu trùng. Không chỉ có tác dụng trong vùng cửa sông mà còn có vai trò quyết định sự đa dạng, giàu có của thủy hải sản vùng biển Cù Lao Chàm, trong đó có nhiều loài đặc hải sản. Các hệ sinh thái này có vai trò rất quan trọng, tạo thành dòng chảy sinh thái, quan hệ mật thiết, tương hỗ, liên kết lẫn nhau, tựa như những mắt xích quan trọng từ vùng cửa sông đến Cù Lao Chàm và ra cả đại dương.
Những lớp lưới lồng dày đặc trong hệ sinh thái cửa sông vành đai khu Dự trữ sinh quyển TG CLC– Ảnh: Công Sanh
Thế nhưng hiện nay, các loài thủy, hải sản khu vực vùng bờ đang bị đe dọa, uy hiếp một cách bởi nghề lưới lồng. Đây là loại lưới bát quái có xuất xứ từ Trung Quốc, được thiết kế khác với lưới thông thường. Lưới lồng gồm những cái lồng hình chữ nhật, có cửa kiểu như hom giỏ (hom lờ) để các loài thủy sản chui vào, không tìm được đường ra. Mỗi tay lưới dài chừng 5m – 7m và mỗi ngư dân có đến 100 – 200 tay lưới. Mắt lưới dày nên tất cả các loại hải sản lớn nhỏ, từ con cá, tôm, tép đến cua, ghẹ, lươn lạch đều bị sa vào bẫy lồng. Theo nhiều ngư dân, nghề lưới lồng mới phát triển trong vài năm trở lại đây nhưng hiện nay đã có rất nhiều hộ sử dụng nên gần như lưới lồng phổ biến trên các dòng sông, kênh mương, vây kín quanh rừng dừa nước Cẩm Thanh, các cồn bãi tự nhiên, các bãi đẻ, bãi ương giống của thủy sản trong khu sinh quyển. Ở một số khu vực như Cẩm Kim, Cẩm Nam, Cẩm Thanh và vùng ven sông thuộc xã Duy Vinh, Duy Nghĩa, nghề lưới lồng này trở thành nguồn thu nhập chính của người dân. Gần đây, hầu hết các hộ làm nghề truyền thống như làm rớ, lưới đáy, thả lưới 3 lớp trên sông đã và đang nhanh chóng chuyển sang làm nghề lưới lồng, dẫn đến các nguồn hải sản ngày càng có nguy cạn kiệt. Dễ thấy nhất là vào các buổi chiều mỗi ngày, một số khu vực ở các nhánh sống nhộn nhịp các ghe thả lưới lồng. Lưới lồng nối đuôi nhau thành hệ thống, giăng trải dài hàng cây số chiếu dài và 5 – 10 m ngang lại có một lớp khác, nối song song nhau từ thượng nguồn đến vùng cửa sông và quanh chân các rừng dừa, rừng đước. Ngư dân Nguyễn Văn T, xã Cẩm Kim cho biết: “Mỗi đêm nghề lưới lồng đã đem về cho hộ làm nghề từ năm trăm đến hơn triệu đồng. Công việc nhẹ nhàng, không cần có kinh nghiệm, không cần mồi, chỉ việc thả cho lồng chìm xuống tầng đáy và vớt lồng, sáng ngày thu sản phẩm. Như vậy ngư dân vẫn có thu nhập mà còn có thể kết hợp làm nhiều công việc khác vào ban ngày nên ngày càng có nhiều người đầu tư mua lưới lồng đánh bắt”.
Trên thực tế, Chính phủ có quy định rất cụ thể về việc xử phạt đối với trường hợp kích thước mắt lưới nhỏ nhất của ngư cụ khai thác thủy sản nước ngọt. Tuy nhiên thời gian qua, việc sử dụng lưới lồng có sức khai thác cạn kiệt thủy sản đều chưa có sự kiểm tra, giám sát, can thiệp của các địa phương và các ngành hữu quan.
Ông Công Sanh, Chuyên viên Ban Quản lý Khu Bảo tồn Biển Cù lao Chàm Hội An cho rằng: “Trước sự phát triển mạnh mẽ của nghề lưới lồng như hiện nay, để giảm tránh tình trạng nguồn lợi thủy sản bị cạn kiệt, khai thác quá mức, nhất là tại các bãi giống, bãi đẻ, bãi ương giống tự nhiên trong hệ sinh thái vùng bờ, cửa sông đến hệ sinh thái biển, thời gian đến rất cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, từ việc xây dựng hệ thống pháp luật đến việc quản lý, vận động của chính quyền địa phương không khuyến khích mở rộng loại hình đánh bắt đối với nghề lưới lồng”. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về mục đích công tác bảo tồn nguồn lợi hải sản, đồng thời cần điều tra, đánh giá một cách tổng quan về số lượng hộ đang làm nghề lưới lồng của các khu vực vùng ven như xã Cẩm Kim, Cẩm Nam, Cẩm Thanh và các vùng lân cận để đưa ra những chiến lược, giải pháp hỗ trợ, chuyển đổi sinh kế phù hợp, nhằm giảm thiểu nghề lưới lồng và quản lý tốt hơn các hệ sinh thái ven bờ, đặc biệt là bảo vệ tốt các bãi giống, bãi đẻ trong và ven khu sinh quyển.
Lê Hiền